Chiến lược của Đức Trận_chiến_nước_Pháp

Nước Pháp trong chiến lược của Hitler

Ngay từ năm 1922, Hitler đã nhắm tới mục tiêu lâu dài của chiến tranh là bành trướng về phía Đông, chinh phục nước Nga để mở rộng không gian sinh tồn cho người Đức,[20] cùng với "sự hủy diệt sức mạnh Do Thái" vốn được xem là nền tảng của nó,[21] với hy vọng nhận được sự hỗ trợ từ phía nước Anh.[22] Trong cuốn sách Mein Kampf, Hitler đã chỉ ra tiền đề cho cuộc chinh phục này là phải thôn tính xong nước Pháp nhằm tránh một cuộc chiến tranh cùng lúc trên hai mặt trận.

Từ những biểu hiện nhu nhược của các cường quốc phương Tây, Hitler cho rằng trừ khi bị tấn công, các nước này sẽ vẫn trốn tránh đối đầu quân sự với nước Đức.[23] Phản ứng từ chối đề nghị hòa bình của Đồng Minh đã khiến Hitler quyết định tận dụng chiến thắng chớp nhoáng đối với Ba Lan để "đánh bại Pháp và [...] buộc nước Anh thừa nhận sự yếu thế và tìm cách thỏa hiệp".[13][24] Một khi đã "buộc Phương Tây quỳ gối", Đức có thể quay lại chống "Chủ nghĩa Bolshevik Do Thái" và chinh phục nước Nga[25] để đảm bảo tương lai lâu dài của Đế chế thứ ba, nhờ vào các nguồn tài nguyên phong phú tại những vùng lãnh thổ phía Đông.[13]

Chỉ thị Führer số 6

Nhằm phục vụ cho chiến lược này, trước cả khi Anh và Pháp có thời gian để trả lời đề nghị hòa bình của mình, ngày 9 tháng 10 năm 1939, Hitler đã cho ban hành "chỉ thị Führer số 6" trình bày một đường lối hành động quân sự trong trường hợp bị cự tuyệt.[26] Dù Hitler luôn mơ tưởng về một chiến dịch quân sự lớn nhằm đánh bại hoàn toàn các quốc gia Tây Âu, thế nhưng ý tưởng này lại vắng bóng trong bản chỉ thị Führer số 6.[27] Bản kế hoạch này dựa trên những biểu hiện thực tế rằng sức mạnh quân sự của Đức vẫn cần phải được tiếp tục xây dựng trong nhiều năm nữa và trong thời điểm hiện tại chỉ có thể nhắm đến những mục tiêu hạn chế, nhằm hỗ trợ tăng cường tiềm lực phục vụ cho một cuộc chiến tranh quy mô lớn và lâu dài ở phía Tây.[28] Theo đó, Hitler ra lệnh Vùng Đất Thấp phải được chiếm trong thời hạn ngắn nhất có thể để ngăn Pháp chiếm đóng các quốc gia này và đe doạ vùng Ruhr - khu vực quan trọng sống còn của Đức,[29] đồng thời đem lại cho Đức các căn cứ quân sự phục vụ cho một chiến dịch lâu dài ở trên biển và trên không chống lại nước Anh. Chỉ thị Führer số 6 không đề cập đến một cuộc tấn công kế tiếp ngay sau đó nhằm chinh phục toàn bộ nước Pháp, mặc dù rất có khả năng các vùng biên giới ở bắc Pháp sẽ bị chiếm đóng.[27]

Trong khi đang soạn thảo chỉ thị, Hitler cho rằng một cuộc tấn công có thể bắt đầu tiến hành sau nhiều nhất là vài tuần lễ, nhưng sau đó ông ta đã tỉnh ngộ về ảo tưởng này. Thực tế cho thấy ông ta đã không nắm được chính xác về thực trạng sức mạnh quân sự của Đức. Vào thời điểm đó, tình trạng quân đội Đức thật tồi tệ với nhiều trang thiết bị tổn thất nặng nề (một nửa số xe tăng và xe có động cơ đã bị phá hủy[13]). Ngoài ra, còn có dấu hiệu cho thấy rằng có nhiều trường hợp vô kỷ luật diễn ra trong quân đội Đức và sự hoang mang trong chiến đấu, những điều mà Bộ Tổng tham mưu Đức cần phải giải quyết trước khi tiến hành một chiến dịch quân sự quy mô lớn nào khác.[30]

Ngày 27 tháng 9 năm 1939, Hitler công bố dự định ngay sau khi chiến dịch Ba Lan kết thúc sẽ bắt đầu tấn công các cường quốc phương Tây, cụ thể là vào ngày 25 tháng 10 (dù có chấp nhận rằng ngày tháng đó có thể là thiếu thực tế). Đến ngày 5 tháng 11, Hitler lại đề xuất sẽ tấn công vào 12 tháng 11 với Tổng Tư lệnh Lục quân Walther von Brauchitsch. Viên tướng này trả lời rằng quân đội vẫn chưa phục hồi sau chiến dịch Ba Lan, các đơn vị cơ giới cần phải được phục hồi sửa chữa trong vòng 3 tháng nhằm khắc phục những tổn thất trong chiến dịch Ba Lan; còn các kho đạn dược thì đang bị cạn kiệt trầm trọng. Von Brauchitsch xin được từ chức nếu Quốc Trưởng không thay đổi ý định, Hitler đã bác bỏ nhưng hai ngày sau cũng đã cho hoãn tấn công, với lý do chính thức được đưa ra là thời tiết xấu.[31][32]:42–43

Các tướng lĩnh Đức khác cũng không đặt cuộc chiến ở phía Tây ngang hàng với chiến dịch tại Ba Lan, họ lo sợ sức mạnh phòng thủ của Pháp, với một đội quân khổng lồ và phòng tuyến Maginot cùng với khối liên minh với Anh và các thuộc địa của nó, họ tin rằng các lực lượng vũ trang Đức hiện không sẵn sàng cho một cuộc xung đột mà trong mắt họ, chỉ có thể thất bại. Hitler, lúc đầu tức giận trước sự do dự của các tướng lĩnh, nhưng cuối cùng đã phải nhượng bộ trước lý lẽ của họ về tình trạng thời tiết xấu (mùa thu 1939) và các vấn đề giao thông vận tải,[13] cũng như khả năng Liên Xô có thể thay đổi thái độ trung lập.[33] Tổng cộng Hitler đã chấp nhận trì hoãn thời điểm bắt đầu của cuộc tấn công đến 29 lần.[13]

Kế hoạch Halder

Sau khi Anh và Pháp từ chối lời đề nghị hoà bình của Hitler, ngày 19 tháng 10, Franz Halder, tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Lục quân Đức (OKH) đã trình bày phương án tác chiến đầu tiên của Fall Gelb ("Kế Hoạch Vàng"), mật danh của kế hoạch tấn công Vùng Đất Thấp: "Bản Chỉ dẫn Triển khai số 1, Kế Hoạch Vàng" (Aufmarschanweisung N°1, Fall Gelb).[34] Kế hoạch này dự tính huy động 102 sư đoàn, trong đó có 9 sư đoàn thiết giáp và 6 sư đoàn cơ giới tấn công vỗ mặt trên chính diện rộng từ Hà Lan đến Bỉ.[35]

Kế hoạch của Halder thường được so sánh với kế hoạch Schlieffen, được người Đức triển khai năm 1914 trong Chiến tranh thế giới thứ nhất.[36] Điểm tương tự giữa hai kế hoạch này là đề xuất một cuộc tiến công qua trung tâm nước Bỉ, nhưng trong khi mục đích của kế hoạch Schlieffen là đạt đến một thắng lợi quyết định bằng cách phát triển vòng theo bờ Đại Tây Dương rồi bất ngờ ngoặt về phía Đông để tiến hành một cuộc bao vây khổng lồ toàn bộ quân chủ lực Pháp, thì Bản Chỉ dẫn Triển khai số 1 lại dựa trên cơ sở một cuộc tấn công vỗ mặt thiếu sáng tạo ở miền Trung nước Bỉ, dự kiến hi sinh nửa triệu lính Đức để đạt mục tiêu hạn chế là đẩy quân Đồng Minh lui về sông Somme và chiếm lấy bờ biển Flanders.[37] Sau đó sức mạnh của quân Đức sẽ cạn kiệt trong năm 1940; chỉ đến năm 1942 mới có thể bắt đầu cuộc tấn công chính vào nước Pháp.[38] Câu hỏi về những hoạt động sau đó của quân đội Đức để đến được bờ biển Manche vẫn chưa được giải quyết. Có ý kiến cho rằng Halder vào lúc này đang chống đối lại Hitler nên đã cố tình đề ra kế hoạch bi quan hết mức có thể nhằm làm Hitler tiêu tan hi vọng về một cuộc tấn công toàn diện.[39]

Thời gian quá dài của bản kế hoạch làm Hitler rất thất vọng. Ông ta phản ứng lại bằng cách quyết định rằng quân Đức phải tấn công sớm hơn, bất kể đã sẵn sàng hay chưa, với hy vọng việc quân Đồng Minh không có chuẩn bị sẽ có thể đem lại chiến thắng dễ dàng. Mệnh lệnh này đã kéo theo một chuỗi những lần trì hoãn về thời gian, khi các tướng lĩnh thuyết phục Hitler gia hạn cuộc tấn công thêm vài ngày hay vài tuần nhằm khắc phục một số khuyết điểm nghiêm trọng trong khâu chuẩn bị, hay để đợi điều kiện thời tiết tốt hơn. Hitler còn cố gắng sửa đổi kế hoạch mà không có sự am hiểu tường tận về quân sự. Kết quả là dẫn đến một kế hoạch làm phân tán lực lượng Đức, khi mà ngoài hướng tấn công chính là ở trung tâm nước Bỉ, còn có cuộc tấn công phụ dự kiến sẽ diễn ra ở xa hơn về phía nam (Hitler đưa ra đề xuất đó vào ngày 11 tháng 11 năm 1939)[40].

Ngày 29 tháng 10, Halder đưa ra một kế hoạch hành động thứ hai, "Bản Chỉ dẫn Triển khai số 2, Kế hoạch Vàng" (Aufmarschanweisung N°2, Fall Gelb) có khác biệt ở chỗ mũi chủ công trực diện được thay bằng 2 mũi thọc sâu thiết giáp đi qua Bắc và Nam Liége để bao vây một phần lớn chủ lực Đồng Minh ở trung tâm nước Bỉ,[41] đồng thời cắt bỏ mũi tấn công phụ tại Hà Lan để tập trung quân cho hướng này.[42] Theo kế hoạch mới này, mũi chủ công là Cụm Tập đoàn quân B của tướng von Bock đóng ở phía bắc mặt trận sẽ đi qua Bỉ rồi vòng lại thọc vào sườn trái các đơn vị Pháp-Bỉ-Anh, sau đó vòng lại đánh bại các lực lượng đối phương tại vùng Lorraine; rồi trong bước thứ hai, dự định bao vây lực lượng còn lại của Đồng Minh bằng cách cho Cụm Tập đoàn quân B từ phía tây đánh dồn họ về phía Cụm Tập đoàn quân A của tướng von Rundstedt - nằm giữa Cụm Tập đoàn quân B và Cụm Tập đoàn quân C ở phía nam mặt trận đối diện vùng Alsace - như một cái đe, tạo thành 2 gọng kềm bóp nát quân chủ lực Đồng Minh.[43] Đây chính là phương án tấn công mà phe Đồng Minh đã dự đoán, và cũng là phương án tấn công rơi vào tay Đồng Minh sau khi một sĩ quan Đức bị hỏng máy bay phải hạ cánh ở Mechelen Bỉ vào ngày 10 tháng 1 năm 1940.

Ngày 10 tháng 1 năm 1940, một chiếc máy bay Messerschmitt Bf 108 của Đức đã gặp sự cố và bắt buộc phải hạ cánh tại Maasmechelen, phía bắc Maastricht thuộc Bỉ ("sự cố Mechelen"). Trong phi hành đoàn của chiếc máy bay có một thiếu tá không quân Đức, Hellmuth Reinberger, người có mang theo bản sao của Bản Chỉ dẫn Triển khai số 2. Reinberger đã không kịp huỷ các tài liệu, và chúng đã nhanh chóng rơi vào tay các nhân viên tình báo Bỉ.[44][45][46] Sau này tướng Wilhelm Keitel đã xác nhận tại tòa án Nuremberg rằng ông ta chưa bao giờ thấy Hitler giận dữ đến thế sau khi nghe tin về việc để lộ tài liệu.[47] Sự cố này thường được cho là nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi toàn diện kế hoạch của Đức, nhưng thực ra không phải như vậy. Trên thực tế, bản chỉnh sửa kế hoạch sau đó vào ngày 30 tháng 1, "Bản Chỉ dẫn Triển khai số 3" (Aufmarschanweisung N°3, Fall Gelb) vẫn tương tự những phiên bản trước đó.[48][49]

Kế hoạch Manstein

Bài chi tiết: Kế hoạch Manstein
Tiến triển của Fall Gelb từ 9/1939 đến 2/1940.

Hitler không phải là người duy nhất phản đối kế hoạch Halder. Tướng Gerd von Rundstedt, tư lệnh Cụm Tập đoàn quân A, cũng không tán thành nó. Tuy nhiên không giống Hitler, một người lính lão luyện như von Rundstedt, hiểu được tường tận cách sửa đổi kế hoạch thế nào cho hợp lý. Ông nhận định rằng thiếu sót chủ yếu của nó là không thích hợp với những nguyên tắc của Bewegungskrieg ("chiến tranh cơ động") cũng như đi chệch chiến lược Trận đánh hủy diệt (Vernichtungsgedanke), vốn đã trở thành kim chỉ nam kinh điển của quân sự Đức từ thế kỷ 19.[50] Cần phải tiến hành một cuộc đột phá tạo điều kiện bao vây và tiêu diệt quân chủ lực Đồng Minh. Địa điểm thích hợp nhất để thực hiện điều này là vùng Sedan, thuộc khu vực mà Cụm Tập đoàn quân A của von Rundstedt phụ trách. Ngày 21 tháng 10, von Rundstedt tán thành với tham mưu trưởng của mình, tướng Erich von Manstein là cần phải soạn thảo một kế hoạch thay thế phản ánh được những ý tưởng cơ bản đó, giúp cho Cụm Tập đoàn quân A có được sức mạnh lớn nhất có thể bằng cách điều bớt các lực lượng từ Cụm Tập đoàn quân B ở phía bắc tới.[42][51]

Trong khi von Manstein đang xây dựng kế hoạch mới ở Koblenz, thì trung tướng Heinz Guderian, tư lệnh Quân đoàn 19, chuyên gia về lực lượng thiết giáp của Đức cũng đang ngụ tại khách sạn gần đó, và Manstein đã cho mời Guderian tham gia thảo luận kế hoạch (một cách không chính thức).[52] Tại thời điểm này trọng tâm của kế hoạch Manstein là một cuộc hành quân từ Sedan lên phía bắc, tiến ra sau lưng chủ lực của quân Đồng Minh, rồi trực tiếp tấn công vào sau lưng đối phương tại Bỉ. Điểm đột phá được chọn là đoạn Sedan - Dinant, nơi có khả năng gây bất ngờ vì có 2 cản ngại tự nhiên cho hoạt động của xe tăng là rừng rậm Ardennes và sông Meuse,[53] nơi mà Bộ tư lệnh Đồng Minh xem là hầu như không thể vượt qua được đối với lực lượng thiết giáp hiện đại.[54] Guderian đã đề xuất một ý kiến có tính mới lạ và tiến bộ hơn:[42] không chỉ có quân đoàn của ông ta mà phần lớn lực lượng thiết giáp Đức cần phải tập trung ở Sedan. Khi Pháp và Anh đã đưa các lực lượng tốt nhất của mình đến những vị trí phòng ngự mạnh ở trong lãnh thổ Bỉ và Hà Lan, lực lượng này sau đó sẽ không di chuyển về phía bắc mà là phía tây, nhằm thực hiện một cuộc tiến quân thọc sâu mau lẹ có tính độc lập chiến lược qua vùng Ardennes. Sau đó, mũi chủ công gồm toàn bộ lực lượng thiết giáp sẽ độc lập tác chiến tiến thật nhanh về phía biển Manche để cô lập chủ lực Đồng Minh ở Bỉ mà không cần đợi những sư đoàn bộ binh chủ lực để đạt tốc độ hành tiến cao nhất. Sau đó thì việc tiêu diệt các lực lượng của Pháp sẽ trở nên tương đối dễ dàng. Như vậy có thể dẫn đến sự sụp đổ về mặt chiến lược của đối phương, tránh được con số thương vong cao do một "trận đánh hủy diệt" thông thường gây ra. Phương pháp sử dụng lực lượng thiết giáp độc lập một cách mạo hiểm này đã được thảo luận rộng rãi ở Đức trước chiến tranh nhưng vẫn chưa hề trở thành một học thuyết được tiếp nhận; và Bộ Tổng tham mưu Đức nghi ngờ về khả năng thực hiện một cuộc hành quân như vậy.[55] Những ý tưởng hoạt động của von Manstein đã ngay lập tức nhận được sự ủng hộ của Guderian, người rất thông thạo địa hình khu vực và có kinh nghiệm với lục quân Đức trong những năm 1914 và 1918.[56]

Von Manstein viết bản đề xuất đại cương đầu tiên về kế hoạch của mình vào ngày 31 tháng 10. Trong đó ông đã cẩn thận tránh đề cập đến tên Guderian và giảm nhẹ vai trò chiến lược của các đơn vị thiết giáp nhằm tránh những ý kiến phản đối không cần thiết.[57] Sáu bản đề xuất nữa sau đó, lần lượt vào các ngày 6, 21, 30 tháng 11; ngày 6, 18 tháng 12 năm 1939; và 12 tháng 1 năm 1940, từ từ được xây dựng hoàn thiện hơn về tổng thể. Thế nhưng tất cả đều bị OKH bác bỏ và không nội dung nào trong đó đến được với Hitler.[56]

Phê chuẩn sửa đổi

Erich von Manstein

Kế hoạch Manstein đã bị nhiều tướng lĩnh Đức từ chối vì cho là nó quá mạo hiểm,[58] do địa hình vùng Ardennes không phù hợp cho xe tăng. Ngày 27 tháng 1, nhằm thủ tiêu ảnh hưởng của Manstein, Halder đã gây tác động khiến ông bị thuyên chuyển từ chức vụ tham mưu trưởng Cụm Tập đoàn quân A sang làm chỉ huy một quân đoàn ở Phổ, bắt đầu nhiệm vụ mới ở Stettin ngày 9 tháng 2.[59]

Bất bình trước việc thuyên chuyển này, Ban tham mưu của Manstein đã phản ánh và gây được sự chú ý của Hitler, ông ta bắt đầu biết được thông tin về kế hoạch Manstein vào ngày 2 tháng 2 năm 1940. Trước khi biết về bản kế hoạch này, Hitler cũng từng đề xuất một đòn tấn công tại Sedan, nhưng sau đó đã từ bỏ vì bị thuyết phục là nó quá mạo hiểm. Ngày 17 tháng 2, tại Berlin, Hitler triệu tập Manstein, Rudolf Schmundt (Tham mưu trưởng quân nhân sự Lục quân Đức) và Alfred Jodl (Tham mưu trưởng quân của Bộ Tư lệnh Tối cao Các Lực lượng Vũ trang Đức) đến để bàn bạc. Hitler chỉ ngồi và lắng nghe, không giống như thói quen của ông ta là hay ngắt lời và chuyển sang độc thoại. Hitler đã rất có ấn tượng, và cuối cùng hoàn toàn đồng ý với đề nghị của Manstein.[60] Ngày hôm sau, ông ta đã ra lệnh sửa đổi kế hoạch cho phù hợp với ý kiến của Manstein.[49] Những ý kiến đó hấp dẫn được Hitler chủ yếu bởi vì chúng đem lại những hy vọng thực tế về thắng lợi.[61] Hitler chỉ nhìn nhận cuộc đột phá ở Sedan về phương diện chiến thuật, trong khi Manstein xem nó như là một phương cách để đi đến kết thúc. Ông đã dự tính một cuộc tiến quân ra eo biển Manche và bao vây các lực lượng Đồng Minh tại Bỉ, mà nếu được tiến hành chính xác, có thể mang lại một kết quả chiến lược có lợi.[62]

Kế hoạch sửa đổi

Người thực hiện việc sửa đổi kế hoạch lại là Franz Halder — von Manstein không còn đóng vai trò gì hơn nữa trong việc này. Halder tán thành việc chuyển mục tiêu trọng tâm xuống phía nam. Kế hoạch này, giữ lại các lại ý tưởng chính có ưu điểm nổi trội của tướng Manstein, là sẽ tiến hành đòn tấn công chính tại địa điểm bất ngờ nhất[13] ở vùng Ardennes rừng núi rậm rạp và có mạng lưới đường sá thô sơ, không phù hợp làm đường tiến quân cho xe tăng. Điều cốt yếu là phản ứng của Đồng Minh phải đúng như dự tính trong kế hoạch ban đầu, đó là những đội quân chủ lực tinh nhuệ của Anh và Pháp phải được điều đến phía bắc để cứu nước Bỉ. Nhằm đảm bảo điều kiện này, cần phải kết hợp một cuộc tấn công hỗ trợ ở phía Bắc[49] do Cụm Tập đoàn quân B thực hiện vào Bỉ và Hà Lan, tạo cảm giác đó là mục tiêu chính của Đức, nhằm kéo các lực lượng Đồng Minh về phía đông để rồi bao vây và giam chân chúng ở đó. Để hoàn thành nhiệm vụ này, 3 trong số 10 sư đoàn thiết giáp hiện có vẫn được phân cho Cụm Tập đoàn quân B. Ngày 24 tháng 2, Bản Chỉ dẫn Triển khai số 4, Fall Gelb (Aufmarschanweisung N°4, Fall Gelb) đã được công bố và đã được Hitler chuẩn thuận.[13][63]

Franz Halder

Tuy nhiên, Halder không có ý định đi chệch ra khỏi học thuyết quân sự truyền thống nên đã không cho phép thực hiện cuộc đột nhập chiến lược độc lập với 7 sư đoàn thiết giáp của tập đoàn quân A.[64] Yếu tố này đầu tiên bị bác bỏ hoàn toàn trong kế hoạch mới.[42] Theo đó, cuộc vượt sông Meuse tại Sedan phải được thực hiện bởi các sư đoàn bộ binh vào ngày thứ 8 của chiến dịch.[42] Chỉ sau nhiều cuộc thảo luận, bản kế hoạch mới chuyển sang cho phép những trung đoàn bộ binh cơ giới thuộc các sư đoàn thiết giáp thiết lập các đầu cầu vào ngày thứ tư, sớm hơn 4 ngày. Nhưng cuộc đột phá tiến về biển Manche vẫn bị dời đến ngày thứ chín, tức là sau 5 ngày trì hoãn để có thời gian tập trung đầy đủ các sư đoàn bộ binh cùng tiến quân với các đơn vị thiết giáp thành một khối thống nhất.

Theo đó, Kế Hoạch Vàng đã ra đời, với trung tâm của sự thắng lợi là Cụm Tập đoàn quân A của tướng von Rundstedt. Trong khi Cụm Tập đoàn quân B của tướng von Bock xâm chiếm Bỉ và Hà Lan, lôi kéo quân đội Đồng Minh tiến vào mặt trận này, thì đội quân của von Rundstedt sẽ tấn công về phía tây tại khu vực biên giới giữa Bỉ và Luxembourg, chọc thủng phòng tuyến Meuse ở khoảng giữa SedanNamur, băng qua dãy Ardennes. Còn Cụm Tập đoàn quân C của tướng von Leeb sẽ cầm chân các đơn vị của Pháp tại phòng tuyến Maginot và sông Rhine.[44]

Ngay cả khi đã được sửa đổi theo các nguyên tắc truyền thống, kế hoạch mới vẫn gây ra một làn sóng phản đối từ phần đông các tướng lĩnh Đức. Họ nghĩ rằng là hoàn toàn vô trách nhiệm khi tập trung các lực lượng tại một vị trí không thể được tiếp tế đầy đủ, khi mà tuyến đường tiếp tế không hợp lý có thể dễ dàng bị người Pháp cắt đứt. Nếu phe Đồng Minh không phản ứng như mong đợi thì cuộc tấn công của Đức sẽ trở thành một thảm hoạ.[65] Thế nhưng Halder đã có một "thay đổi quan niệm đáng kinh ngạc",[66] và sự phản đối này đã bác bỏ. Phần lớn các sĩ quan Đức kinh ngạc trước sự thay đổi này và gọi ông ta là "kẻ đào huyệt cho lực lượng thiết giáp".[67] Halder đã bị chỉ trích bằng đúng cái cách mà ông ta đã bác bỏ kế hoạch do von Manstein đề xuất đầu tiên.

Halder lập luận rằng, vì vị trí chiến lược của Đức quá vô vọng nên cơ may giành chiến thắng quyết định dù nhỏ bé vẫn tốt hơn ngồi yên chịu thất bại.[68] Bản kế hoạch còn ngụ ý rằng rất có khả năng quân Đồng Minh sẽ rút về phía nam. Halder nhấn mạnh nếu điều đó xảy ra, chiến thắng của Đức sẽ càng ít tốn kém hơn, đồng thời là một đòn nặng giáng vào danh tiếng của phe Đồng Minh khi họ bỏ rơi các quốc gia Vùng Đất Thấp. Hơn nữa như vậy sức mạnh tấn công của Đức sẽ không bị sứt mẻ gì, dẫn đến khả năng thực tế có thể tiến hành Fall Rot, cuộc tấn công chính vào nước Pháp ngay sau đó. Tuy nhiên, hành động quyết định này cần phải đợi cho đến khi hoàn thành thắng lợi Fall Gelb. Trong thực tế Đức chỉ lên kế hoạch tỉ mỉ cho chiến dịch trong vòng 9 ngày đầu tiên; chứ hoàn toàn không có thời gian biểu cụ thể cho cuộc tiến quân ra eo biển. Phần còn lại sẽ được bàn bạc và quyết định bởi các tướng lĩnh trên chiến trường. Sự linh động này đã có hiệu quả rất lớn theo dòng diễn biến các sự kiện sau này, và là điểm để các tướng chỉ huy thiết giáp tận dụng triển khai phương án của Manstein trong thực tế.[69]

Tháng 4 năm 1940, vì những lý do chiến lược, Đức đã ưu tiên thực hiện chiến dịch Weserübung tấn công các nước trung lập Đan MạchNa Uy tại Scandinavia.[13] Anh, Pháp và chính phủ Ba Lan tự do phản ứng lại bằng cách mở chiến dịch giúp đỡ Na Uy. Chỉ một phần nhỏ quân đội các nước tham gia mặt trận này. Mỗi bên mất khoảng 5.000 binh lính.[70] Khi chiến dịch Na Uy sắp đến hồi kết thúc, bộ phận chủ lực quân đội Đức đã tập trung ở phía Tây và sẵn sàng tiến hành chiến dịch tấn công Pháp.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trận_chiến_nước_Pháp http://www.kbismarck.com/frencharmistice.html http://www.theartofbattle.com/battle-of-france-194... http://ww2history.com/experts/Robert_Citino/The_Fr... http://www.calvin.edu/academic/cas/gpa/facts01.htm http://quod.lib.umich.edu/cgi/t/text/pageviewer-id... http://mjp.univ-perp.fr/france/1940armistice.htm http://catdir.loc.gov/catdir/toc/ecip0515/20050181... http://commandantdelaubier.info/circonstances/arti... http://www.history.army.mil/books/OpArt/index.htm http://www.dtic.mil/doctrine/jel/jfq_pubs/1630.pdf